Kể từ khi chúng ta chuẩn bị và chính thức bước vào thế kỷ 21, nhân loại đã cùng nhau bàn luận rất nhiều về giáo dục thế kỷ 21. Chúng ta có lớp học của thế kỉ XXI, kĩ năng thế kỉ XXI, lớp học thời 4.0… Chúng ta cũng không ngừng nỗ lực để triển khai và thực hiện chúng. Đối với các quốc gia phát triển, đó cũng là một quá trình làm việc đầy vất vả của giáo viên, những nhà quản lý giáo dục và cả học sinh cũng như phụ huynh. Điều này còn khó khăn hơn gấp nhiều lần đối với các quốc gia đang phát triển. Trong khi các nước đang phát triển kịp biết đến và cố gắng để có thể triển khai những ý tưởng của giáo dục thế kỉ XXI như một sự định hướng cho tương lai, như một sự kì vọng về thay đổi vận mệnh quốc gia dân tộc thì cũng là lúc nhân loại đã chuẩn bị cho một nền giáo dục của thế kỉ XXII. Chúng ta đang sống ở năm 2019, nghĩa là gần 30 năm kể từ khi khái niệm giáo dục thế kỉ XXI được quan tâm. Như vậy phải mất 30 năm để giáo dục bắt đầu thực hiện các kỹ năng của thế kỷ 21 một cách nghiêm túc. Cũng vì thế, sẽ không phải là quá sớm để bắt đầu nghĩ đến nền giáo dục của năm 2100. Tôi cũng như các bạn, sẽ không có một kế hoạch chính xác về diện mạo của nó, nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chuẩn bị để con cháu chúng ta bước vào nền giáo dục mới với nhiều lợi thế hơn và ít thời gian hơn để có thể bắt kịp và thích nghi, nhất là ở những quốc gia đang phát triển và kém phát triển.

Dưới đây là một số dự đoán cho giáo dục thế kỷ 22:

Máy tính chủ yếu sử dụng năng lượng từ ánh sáng, do đó chúng có thể được sử dụng trong bất kỳ tình huống nào, ở bất kỳ kích cỡ nào. Một thiết bị chiếu nhỏ sẽ được thêm vào kính, dây đeo tay, hoặc ẩn vào trong da.

Học sinh vẫn được giám sát bởi một cơ quan trung ương, nhưng nắm vai trò tự kiểm soát giáo dục. Chẳng hạn, học sinh có thể đăng nhập vào giờ khám tại phòng khám thú y, thực hiện phẫu thuật con người ảo, hoặc tạo ra giống nho lai chỉ với một khoản trong môn sinh học. Các trải nghiệm được lưu giữ vào cơ sở dữ liệu dựa trên đám mây và được các nhà giáo dục kiểm tra để giúp học sinh đánh giá chất lượng học tập.

Tất cả dữ liệu thực tế cơ bản có thể truy cập bằng nhiều cách, do đó, các chỉ dẫn trực tiếp không còn được thực hiện. Nếu học sinh học kiến ​​trúc và cần hiểu thêm về các hệ số ma sát, học sinh chỉ cần tìm thông tin có liên quan và tự học nó mà không cần giáo viên.

Các trường đại học đã chuyển sang các cơ sở kinh doanh và các tập đoàn, cho phép các chuyên gia tạo ra những hướng dẫn trong công việc khi mọi người làm việc.

Thực tế ảo được sử dụng trong vô số các tình huống để đánh giá sức khoẻ, khả năng thể chất và khả năng giải quyết vấn đề của một người. Những môi trường này đào tạo con người cho công việc kỹ năng, và cho phép thao tác an toàn và hiệu quả các chất nguy hiểm.

Nanobots làm việc để giữ cho bộ não của chúng ta thoát khỏi sự lão hóa, kéo dài tuổi của chúng ta về khả năng nhận thức.

Truyền thông xã hội đã phát triển thành phương tiện truyền thông cộng đồng, một hệ thống mà mọi người có điểm truy cập khác nhau đến các cộng đồng khác nhau của những người quan tâm đến bất kỳ lĩnh vực nào. Môi trường tương tác ảo cho phép mọi người ở các khu vực khác nhau trên thế giới tham gia cuộc đối thoại trực tiếp. Các quán cà phê ảo cho phép mọi người gặp gỡ những người khác trong môi trường ảo bất cứ lúc nào. Trẻ em chơi và học ngôn ngữ từ các học sinh khác trên khắp thế giới.

Các tòa nhà cho không gian văn phòng không còn tồn tại, nhưng các gia đình thường có 2-3 không gian văn phòng trong mỗi ngôi nhà, cho phép truyền thông ảo và làm việc với dữ liệu.

Thật thú vị khi tưởng tượng những gì sẽ đến với giáo dục và xã hội trong 80 năm tới, nhưng tôi có cảm giác rằng chúng ta đó cũng chỉ là những dự đoán. Thật ra, chúng ta không thể tưởng tượng được một cách chính xác cuộc sống thế kỷ 22 vì quá nhiều lý do. Nhưng nếu không nhìn về phía trước, chúng ta bị mắc kẹt trong hiện tại. Và hiện tại là cái đã qua với giáo dục. Nếu sự đổi mới chậm lại trong giáo dục, thế giới sẽ thấy thế kỷ 22 trước khi giáo dục kịp thực hiện đầy đủ những ý tưởng của thế kỷ 21.

ANTHONY VONBANK, ED.D

Táo Giáo Dục dịch